Ngày 19/06/2025 

CÁC KHUYẾN NGHỊ PHÂN TÍCH CƠ BẢN 

SSI khuyến nghị MUA cp MWG (TP: 74), PNJ (TP: 93.7), KHẢ QUAN cp MSN (TP: 81.6), VNM (TP: 65), SAB (TP: 58), MCH (TP: 157), FRT (TP: 220), TRUNG LẬP cp DGW (TP: 38)  

Cập nhật Ngành Tiêu dùng: Đẩy nhanh quá trình dịch chuyển sang thương mại hiện đại 

Cập nhật 5 tháng đầu năm 2025 

  • Trong 5 tháng đầu năm 2025, nền kinh tế Việt Nam đã ghi nhận những dấu hiệu hồi phục rõ nét hơn với tiêu dùng nội địa hiện đã bắt kịp với sản xuất, đánh dấu sự chuyển dịch từ giai đoạn phục hồi chậm sang một chu kỳ tăng trưởng kinh tế bền vững hơn. Tầng lớp trung lưu vẫn là động lực cốt lõi của sự tăng trưởng này, thúc đẩy nhu cầu trên nhiều lĩnh vực. Đáng chú ý, thị trường bất động sản tiếp tục ghi nhận kết quả tốt, và tiêu dùng dịch vụ đang vượt qua tiêu dùng hàng hóa — tín hiệu tích cực cho thấy sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng và sự bền bỉ của nền kinh tế. Trong 5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tăng 14% svck, nhờ sự tăng trưởng mạnh ở các ngành chủ chốt (điện tử +18,4%, thủy sản +17,8%, giày dép +11,5%, dệt may +12%, gỗ và nội thất +8,6%). Mặc dù kết quả này cho thấy khả năng phục hồi tốt của nền kinh tế, nhưng cũng phản ánh phần nào hiện tượng đẩy nhanh đơn hàng (frontloading) trước lo ngại về các biện pháp áp thuế sắp tới từ Hoa Kỳ. 

Triển vọng 

  • Trong bối cảnh điều kiện vĩ mô thuận lợi, việc triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW về thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục tạo ra động lực mạnh mẽ ở cấp địa phương. Tuy nhiên, những thay đổi gần đây về môi trường pháp lý có thể sẽ tạo ra một số thách thức trong ngắn hạn. 

  • Đáng chú ý, việc tăng cường kiểm soát hàng tiêu dùng giả — bao gồm sữa, dược phẩm, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm — cùng với các biện pháp siết chặt tuân thủ quy định thuế đối với hộ kinh doanh đang làm thay đổi cục diện cạnh tranh. Việc chuyển từ hình thức thuế khoán sang thuế dựa trên doanh thu, theo quy định tại Nghị định 70/2025/NĐ-CP và Nghị quyết 198/2025/QH15, dự kiến sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp không chính thống, từ đó tạo cơ hội cho các kênh bán lẻ hiện đại tăng thị phần. Điều này cũng phù hợp với mục tiêu chiến lược của Nghị quyết 68 là thúc đẩy các hộ kinh doanh chuyển sang mô hình doanh nghiệp. 

  • Ngoài ra, Nghị định 117/2025/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, thúc đẩy tuân thủ thuế đối với các nhà bán hàng trực tuyến không chính thống. Việc các nền tảng thương mại điện tử lớn tăng phí hoa hồng (áp dụng từ tháng 4/2025) cũng sẽ góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch từ hình thức bán lẻ truyền thống sang hiện đại. 

  • Trong khi đó, việc tự do hóa thị trường vàng thông qua sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP được kỳ vọng sẽ khuyến khích sự tham gia rộng rãi hơn của các doanh nghiệp tư nhân, mang lại lợi ích cho các nhà bán lẻ trang sức hiện đại và nâng cao tính minh bạch của ngành. 

Khuyến nghị 

  • Bán lẻ: Với những thay đổi chính sách nêu trên, chúng tôi cho rằng quá trình chuyển dịch từ kênh truyền thống sang kênh hiện đại sẽ diễn ra nhanh hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng dài hạn cho các nhà bán lẻ. Chúng tôi đánh giá cao các công ty vận hành chuỗi hàng tiêu dùng nhanh (MWG, MSN), nhà thuốc (FRT), và trang sức (PNJ) – những lĩnh vực mà kênh hiện đại còn dư địa mở rộng thị phần từ kênh truyền thống. 

  • Thực phẩm và đồ uống (F&B): Tất cả công ty F&B thuộc phạm vi nghiên cứu của chúng tôi đều có mức cổ tức ổn định mặc dù tăng trưởng lợi nhuận năm 2025 chỉ dao động từ -7% đến 0% svck. Về dài hạn, MCH có tiềm năng đạt tăng trưởng lợi nhuận hai chữ số, nhờ gia tăng thị phần từ chiến lược cao cấp hóa sản phẩm và đổi mới hiệu quả. Trong khi đó, tăng trưởng lợi nhuận của VNM và SAB dự kiến sẽ duy trì ở mức khiêm tốn trong dài hạn. 

 HSC khuyến nghị MUA cp HPG (TP: 36.5), TĂNG TỶ TRỌNG cp GMD (TP: 66), SCS (TP: 70.2), GIẢM TỶ TRỌNG cp HAH (TP: 71.7) 

HPG: Nhu cầu VLXD vững chắc; triển vọng lợi nhuận tích cực. 

  • Tập trung phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là chủ đề chính của Việt Nam trong thời gian tới, bất chấp những thách thức từ bên ngoài. Điều này sẽ làm nhu cầu đối với tất cả các loại VLXD tăng mạnh. 

  • Sản lượng tiêu thụ thép trong Q1/2025 của Việt Nam đạt 8 triệu tấn (tăng 11,3% so với cùng kỳ và tăng 0,2% so với quý trước), được thúc đẩy bởi doanh thu trong nước (tăng 37,1% so với cùng kỳ), hoàn toàn bù đắp cho mức giảm 30,3% so với cùng kỳ của doanh thu xuất khẩu. Nhu cầu ống nhựa vẫn vững chắc, tăng 21,7% so với cùng kỳ đạt 122.388 tấn trong 4 tháng đầu năm 2025. HSC dự báo sản lượng tiêu thụ thép/ống nhựa sẽ tăng trưởng với tốc độ CAGR 3 năm lần lượt ở mức 9,5%/11%. 

  • HPG (Mua vào; giá mục tiêu 36.500đ) vẫn là lựa chọn hàng đầu của chúng tôi, nhờ có định giá rẻ và triển vọng lợi nhuận đầy hứa hẹn với lợi nhuận thuần dự kiến tăng trưởng với tốc độ CAGR 3 năm ở mức 36%. 

Cảng biển & Cảng hàng không: Thông tin tích cực đã phản ánh một phần vào giá 

  • Trong bối cảnh lo ngại về thuế đối ứng từ Mỹ, sản lượng hàng hóa qua các cảng biển và cảng hàng không của Việt Nam trong tháng 4 vẫn ghi nhận mức tăng tích cực, tăng lần lượt 10% và 21% so với cùng kỳ. 

  • HSC kỳ vọng sản lượng sẽ tiếp tục tăng mạnh trong tháng 5 và 6 nhờ việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trước thời hạn áp thuế mới vào ngày 8/7. Theo đó, triển vọng KQKD Q2/2025 của các doanh nghiệp trong ngành được đánh giá tích cực mặc dù vẫn còn nhiều bất định trong nửa cuối năm. 

  • Đà tăng gần đây của giá cổ phiếu phần nào đã phản ánh kỳ vọng về KQKD Q2/2025 khả quan. Theo đó, chúng tôi hạ khuyến nghị đối với GMD xuống Tăng tỷ trọng (từ Mua vào) và HAH xuống Giảm tỷ trọng (từ Nắm giữ) trong khi duy trì khuyến nghị Tăng tỷ trọng đối với lựa chọn hàng đầu SCS với tiềm năng tăng giá 13%. 

  

Ngành nước: Lợi ích hài hòa cùng phát triển 

  • Các công ty cấp nước trong danh sách khuyến nghị của HSC đang bước vào giai đoạn mở rộng HĐKD với nhu cầu vốn lớn. TDM đã chiết khấu khoảng 21,5% giá bán buôn nước sạch cho BWE trong hai tháng qua để hỗ trợ dòng tiền của BWE. 

  • Phản ánh mức giảm giá bán của TDM vào mô hình dự báo lợi nhuận, chúng tôi tăng 7% dự báo tổng lợi nhuận thuần của ngành trong năm 2025 lên 843 tỷ đồng (tăng trưởng 28%), chủ yếu nhờ điều chỉnh tăng 9% dự báo lợi nhuận thuần của BWE. 

  • Trong khi TDM đang giao dịch ở mức định giá cao hơn so với bình quân quá khứ, BWE đang giao dịch ở mức sát với bình quân quá khứ. HSC ưa thích cổ phiếu TDM hơn BWE do tỷ lệ nợ/vốn CSH thấp hơn. Điều này mang lại cho TDM nhiều cơ hội hơn để cải thiện lợi nhuận trên vốn CSH (ROE) trong tương lai. 

 VCSC khuyến nghị MUA cp DPG (TP: 41.4), HDG (TP: 30.6), cập nhật DCM, GVR 

DPG: Cột mốc pháp lý tại dự án Bình Dương - Quảng Nam 

  • HĐQT của CTCP Tập đoàn Đạt Phương (DPG) đã công bố chính sách đầu tư điều chỉnh cho Khu phức hợp dịch vụ nghỉ dưỡng Bình Dương tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Quyết định này sửa đổi chính sách đầu tư ban đầu đã được phê duyệt vào năm 2017, giảm đáng kể vốn đầu tư do những thay đổi trong cơ cấu sản phẩm. 

  • Vốn đầu tư được điều chỉnh giảm. Tổng vốn đầu tư XDCB hiện được dự toán là 3 nghìn tỷ đồng, giảm 35% so với chính sách đầu tư ban đầu đã được phê duyệt. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu đầu tư giờ đây sẽ chỉ chiếm 15% tổng nguồn vốn thay vì 20% như ban đầu. 

  • Cơ cấu sản phẩm: Theo đề án điều chỉnh, diện tích đất phát triển được quy định là 178 ha, trong đó 19 ha và 27 ha sẽ dành cho hạ tầng và các khu vực xung quanh, được cơ cấu thành 4 khu: 

  • Khu A – Sân golf (86 ha): sân golf 18 lỗ, đạt tiêu chuẩn quốc tế để tự vận hành 

  • Khu B – Khu du lịch nghỉ dưỡng sân golf (24 ha): với các biệt thự để bán và đất khách sạn 9 tầng để bán cho nhà đầu tư thứ cấp. 

  • Khu C – Khu tổ hợp thương mại - dịch vụ du lịch (24 ha): khu thương mại dịch vụ đa chức năng rộng 8 ha, đất khách sạn 9 tầng và đất công viên chủ đề cũng để bán cho nhà đầu tư thứ cấp. 

  • Khu D – Khu nghỉ dưỡng ven biển (16 ha): khách sạn 5 sao và biệt thự để tự vận hành. 

  • Lộ trình triển khai: Theo lịch trình thực hiện, tất cả các thủ tục pháp lý và giải phóng mặt bằng dự kiến sẽ hoàn thành vào quý 4/2026. Giai đoạn 1 sau đó sẽ triển khai từ quý 1/2027 đến quý 4/2029, đưa vào hoạt động Khu A, B và C. Giai đoạn 2, dự kiến từ quý 1/2030 đến quý 4/2032, sẽ hoàn thiện khu nghỉ dưỡng ven biển (Khu D). 

  • Tiềm năng tăng dự báo: Trong các dự báo hiện tại của VCSC, VCSC vẫn áp dụng định giá cho dự án theo giá trị sổ sách của chi phí bồi thường đất và tư vấn. Với bước tiến pháp lý này, hiện dự án đang có triển vọng rõ ràng hơn, điều này mang lại nền tảng vững chắc để định giá lại dự án. Nhìn chung, VCSC nhận thấy tiềm năng tăng so với dự báo hiện tại của VCSC, dù cần thêm đánh giá chi tiết. VCSC hiện có khuyến nghị MUA đối với DPG với giá mục tiêu 41.400 đồng/cổ phiếu (sau khi điều chỉnh 60% cổ tức bằng cổ phiếu trên giá mục tiêu cũ là 66.100 đồng). 

HDG: Giá bán đối với dự án điện mặt trời Infra có thể thấp hơn, rủi ro giảm nhẹ 

  • Theo CTCP Tập đoàn Hà Đô (HDG), nhà máy điện mặt trời Infra 1 đang nhận mức giá chuyển tiếp tạm thời là 4,6 US cent/kWh kể từ ngày 01/01/2025, thấp hơn đáng kể so với giả định trước đây của VCSC là 9,35 US cent/kWh. 

  • Trong giai đoạn 2020–2024, EVN vẫn thanh toán đầy đủ cho dự án với mức 9,35 US cent/kWh (FiT1). Tuy nhiên, do dự án chỉ được cấp Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình (CCA) sau khi FiT2 (7,09 US cent/kWh) hết hiệu lực, nên hiện đang áp dụng mức giá chuyển tiếp tạm thời, chờ quyết định chính thức. 

  • VCSC lưu ý rằng, theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, nhà máy điện mặt trời Infra 1 của HDG (50 MWp) nằm trong số 14 dự án không đủ điều kiện hưởng giá FIT 9,35 US cent/kWh, do không nằm trong danh mục được Thủ tướng phê duyệt theo Nghị quyết số 115/NĐ-CP ngày 31/08/2018 (2.000 MW, phê duyệt từ năm 2013). Tuy nhiên, HDG cho biết Bộ Công Thương có thẩm quyền phê duyệt các dự án dưới 50 MW – là trường hợp của Infra 1 – do đó công ty vẫn được thanh toán đầy đủ ở mức 9,35 US cent/kWh. 

  • Dự án Infra 1 vẫn được thanh toán đầy đủ theo FiT1 cho đến cuối năm 2024, nhưng bắt đầu ghi nhận doanh thu theo giá chuyển tiếp kể từ ngày 01/01/2025. Theo đó, HDG đã trích lập khoảng 19 tỷ đồng chi phí dự phòng cho dự án này trong quý 1/2025, phản ánh khả năng giá bán giảm. Tuy nhiên, HDG cho biết không trích lập dự phòng cho khoản doanh thu đã nhận trong giai đoạn 2020– 2024 do mức giá vẫn chưa được chốt chính thức (ước tính của VCSC là khoảng 370 tỷ đồng trong kịch bản kém khả quan nhất), và công ty khẳng định không có sai sót trong việc đáp ứng yêu cầu về CCA. 

  • VCSC dự báo dự án điện mặt trời Infra sẽ tạo ra trung bình khoảng 123 tỷ đồng/năm trong giai đoạn 2025–2029, tương đương khoảng 8% LNST của HDG. Dự án này được VCSC định giá khoảng 1,1 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng giá trị tài sản ròng (NAV) của HDG. VCSC kỳ vọng dự án sẽ được áp dụng mức giá FiT2. 

  • VCSC hiện có khuyến nghị MUA cho HDG, với giá mục tiêu là 30.600 đồng/cổ phiếu. 

DCM: Triển vọng giá urê tích cực trong ngắn hạn và dài hạn - Báo cáo ĐHCĐ 

  • Tại ĐHCĐ năm 2025, ban lãnh đạo bày tỏ quan điểm tích cực về triển vọng giá urê trong các quý tới. VCSC nhận thấy tiềm năng điều chỉnh tăng nhẹ đối với dự báo LNST sau lợi ích CĐTS năm 2025 của VCSC cho DCM (1.688 tỷ đồng, +19% YoY), dù cần thêm đánh giá chi tiết. Về dài hạn, giá urê tiềm năng cao hơn dự kiến và đóng góp lợi nhuận từ mảng kinh doanh mới (khí công nghiệp & hóa chất) có thể bù đắp chi phí khí cao hơn dự kiến, dù cần thêm đánh giá chi tiết. Vui lòng tham khảo Báo cáo Gặp gỡNĐT của VCSC, ngày 3/6/2025 để biết thêm thông tin chi tiết. VCSC hiện có khuyến nghị MUA đối với DCM với giá mục tiêu 38.700 đồng/cổ phiếu. - Kế hoạch thận trọng cho năm 2025: Doanh thu 13,3 nghìn tỷ đồng (+18% YoY so với kế hoạch năm 2024, tương đương 86% dự báo năm 2025 của VCSC) và LNST 764 tỷ đồng (-3% YoY so với kế hoạch năm 2024, tương đương 45% dự báo năm 2025 của VCSC). Trong cuộc họp gặp gỡ NĐT trước đây, DCM đã công bố LNTT sơ bộ 6T 2025 đạt 1.054 tỷ đồng (+6% YoY, +28% YoY so với LNTT cốt lõi 6T 2024), tương đương khoảng 138% kế hoạch năm 2025 và 56% dự báo năm 2025. 

  • Sản lượng bán hàng đã ký tính đến tháng 6/2025 đã vượt công suất sản xuất hiện tại, theo DCM. Để đáp ứng nhu cầu gia tăng trong dài hạn, DCM đang tiến hành cải hoán để tăng hiệu suất hoạt động từ mức hiện tại 115% lên 125% so với công suất thiết kế. 

  • Kế hoạch cổ tức: Cổ tức trị giá 2.000 đồng/cổ phiếu cho năm 2024, phù hợp với dự báo của VCSC; dự kiến cổ tức 1.000 đồng/cổ phiếu cho năm 2025, thấp hơn dự báo 2.000 đồng/cổ phiếu của VCSC. Tuy nhiên, cổ tức thực tế đã trả trung bình cao gấp khoảng 3 lần so với kế hoạch ban đầu trong 5 năm qua. 

  • Ban lãnh đạo kỳ vọng giá urê sẽ tăng trong các quý tới. Điều này được thúc đẩy bởi (1) gián đoạn nguồn cung từ khu vực Baltic và Trung Đông do căng thẳng địa chính trị, (2) nhu cầu gia tăng từ các gói thầu urê sắp tới của Ấn Độ, và (3) việc ngừng sản xuất urê ở Ai Cập. Các yếu tố này dự kiến sẽ bù đắp cho ảnh hưởng từ việc Trung Quốc nối lại một phần xuất khẩu urê, vốn vẫn còn hạn chế về sản lượng. Ngoài ra, giá khí đốt tăng cũng sẽ tác động tích cực đến giá urê. Mức tăng này thường có độ trễ 2-3 tuần, giúp các nhà sản xuất bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí khí đầu vào cao hơn.  

  • DCM đang tăng cường sự hiện diện của công ty trên toàn bộ chuỗi giá trị nông nghiệp thông qua việc (1) gia nhập phân khúc sữa hạt và chế biến liên quan; và (2) bán lẻ hoa, cây cảnh và dụng cụ nông nghiệp. Vốn đầu tư XDCB và doanh thu/lợi nhuận tiềm năng chưa được công bố. VCSC kỳ vọng DCM có vị thế tốt để thành công trong các mảng kinh doanh mới này bằng cách tận dụng kinh nghiệm sâu rộng của công ty trong lĩnh vực nông nghiệp. Những sáng kiến này không chỉ củng cố vị thế của DCM trong ngành nông nghiệp mà còn bổ sung cho chiến lược đa dạng hóa rộng hơn của công ty, bao gồm các hoạt động trong lĩnh vực khí công nghiệp & hóa chất, và kinh doanh cảng (chủ yếu nhằm tối ưu hóa chi phí logistics). 

  • Khí công nghiệp và hóa chất: DCM có kế hoạch đầu tư 200 triệu USD, dự kiến doanh thu 5-6 nghìn tỷ đồng, chuyên về sản xuất và thu gom các loại khí N2, O2, Ar, H2 và CO2. - Dự án nhà máy và cảng Nhơn Trạch: Với tổng vốn đầu tư 3,4 nghìn tỷ đồng, công suất sản xuất 150 nghìn tấn các loại phân bón khác và công suất xử lý 450 nghìn tấn hàng, dự án này được triển khai nhằm (1) tăng cường khả năng lưu trữ hàng tồn kho nhằm đáp ứng nhu cầu tức thời, (2) cắt giảm chi phí logistics, và (3) cung cấp dịch vụ cảng cho tàu có trọng tải lên đến 45.000 tấn. Dự án nhà máy và cảng Nhơn Trạch hiện đang trong quá trình lập quy hoạch chi tiết 1/500. 

  • Các dự án khác: Sản xuất khí CO2 thực phẩm dự kiến bắt đầu vận hành thử nghiệm vào tháng 4/2025. Giai đoạn thử nghiệm ban đầu sẽ được thực hiện ở quy mô nhỏ, sau đó sẽ được mở rộng dần. Một kho chứa 12.000 tấn tại nhà máy DCM đã được khởi công vào tháng 2/2025, dự kiến đi vào hoạt động vào đầu năm 2026. 

ĐHCĐ thông qua việc bổ nhiệm 2 thành viên HĐQT mới: 

  • Ông Nguyễn Đức Hạnh (sinh năm 1972) – sở hữu bằng Cử nhân Kinh tế Năng lượng và 25 năm kinh nghiệm làm việc trong Khu liên hợp Khí-Điện-Đạm Cà Mau. 

  • Ông Lê Việt Dũng (sinh năm 1960) – được bổ nhiệm làm thành viên HĐQT độc lập, ông là Phó Giáo sư Nông nghiệp với 33 năm kinh nghiệm giảng dạy tại Đại học Cần Thơ. 

GVR: Ban lãnh đạo tiếp tục lạc quan về triển vọng giá cao su; thủ tục pháp lý cho các dự án KCN hiện đang được triển khai - Báo cáo ĐHCĐ. 

  • Cổ đông đã thông qua kế hoạch kinh doanh năm 2025 của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (GVR) với tổng thu nhập (bao gồm doanh thu, thu nhập tài chính và thu nhập khác) dự kiến đạt 31,0 nghìn tỷ đồng (+8% YoY) và LNST dự kiến đạt 5,0 nghìn tỷ đồng (+3% YoY), lần lượt tương đương 103% và 110% dự báo của VCSC. VCSC cho rằng nguyên nhân khiến kế hoạch lợi nhuận cao hơn dự báo của VCSC là do ban lãnh đạo kỳ vọng rằng biên lợi nhuận và giá bán cao su trung bình sẽ tăng cao hơn. Trong quá khứ, kết quả LNST của GVR các năm 2022/2023/2024 lần lượt hoàn thành 90%/79%/140% kế hoạch đặt ra vào đầu năm. 

  • GVR công bố LNTT sơ bộ nửa đầu năm 2025 đạt 2,5 nghìn tỷ đồng (+31% YoY), hoàn thành 43% kế hoạch năm 2025 và tương đương 45% dự báo cả năm của VCSC. VCSC nhận thấy không có thay đổi đáng kể đối với dự báo lợi nhuận năm 2025 của VCSC, dù cần thêm đánh giá chi tiết. 

  • Cổ đông đã thông qua mức cổ tức bằng 4% mệnh giá cho năm tài chính 2024 và tối thiểu 4% mệnh giá cho năm tài chính 2025. Trong các năm trước, GVR luôn chi trả toàn bộ cổ tức bằng tiền mặt. VCSC hiện dự báo cổtức tiền mặt năm 2024 và 2025 sẽ lần lượt ở mức 300 đồng/cổ phiếu (lợi suất 1,0%) và 400 đồng/cổ phiếu (lợi suất 1,4%). 

  • Cổ đông đã thông qua việc miễn nhiệm ông Trần Ngọc Thuận – một thành viên độc lập của Hội đồng Quản trị nhiệm kỳ 2021-2026. 

  • Cổ đông cũng đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động của Ban Kiểm soát và điều lệ của GVR. Giá bán cao su trung bình dự kiến sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao: Ban lãnh đạo dự kiến giá bán cao su trung bình năm 2025 sẽ ở mức xấp xỉ 46–47 triệu đồng/tấn, cao hơn mức trung bình năm 2024 là khoảng 43 triệu đồng/tấn, do GVR kỳ vọng tình trạng thiếu hụt nguồn cung sẽ tiếp tục hỗ trợ giá bán. Giá bán cao su trung bình từ đầu năm 2025 đến nay của GVR đạt khoảng 52 triệu đồng/tấn và hiện đang dao động quanh mức 50 triệu đồng/tấn. Bất chấp những thách thức liên quan đến thuế quan, ban lãnh đạo vẫn cho rằng xu hướng tăng giá chung sẽ không bị gián đoạn, và đánh giá năm 2025 sẽ là khởi đầu cho một chu kỳ tăng trưởng mới của giá cao su. 

  • Các thủ tục pháp lý cho một số dự án KCN hiện đang được triển khai: GVR kỳ vọng sẽ mở bán một số KCN đã được phê duyệt trong trung hạn, bao gồm: Hiệp Thành (Tây Ninh), Rạch Bắp mở rộng (Bình Dương), Bắc Đồng Phú mở rộng (Bình Phước), và Minh Hưng III mở rộng (Bình Phước). Hiện công ty đang xin phê duyệt đầu tư cho tổng cộng ~5.800 ha KCN mới tại các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa–Vũng Tàu, Bình Phước và Bình Dương, phù hợp với quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021–2030.